KỲ 2: TIỀU ẨN CỔ BÍCH
其二
樵隱古碧
鳳凰山上寂村墟
樵隱先生古壁餘
片石光芒明月斧
半墙漂渺白雲鑪
芳從自昔碑無作
勝景于今盡不如
凜烈英風千古在
重山容步訪幽居
Phiên âm:
Kỳ II: Tiều Ẩn cổ bích
Phượng Hoàng sơn 1 thượng tịch thôn khư
Tiều Ẩn 2 tiên sinh cổ bích 3 dư
Phiến thạch quang mang minh nguyệt phủ
Bán tường phiếu diểu bạch vân lư
Phương tung tự cổ hồn vô tại
Thắng cảnh vu kim tận bất như
Lẫm liệt anh phong thiên cổ tại
Trùng sơn dong bộ phỏng u cư.
Dịch nghĩa
Bài 2: Bức tường cổ của Tiều Ẩn
Trên núi Phượng hoàng thôn xóm vắng vẻ
Nhà của Tiều Ẩn tiên sinh còn sót lại bức tường cũ
Ánh trăng vằng vặc như lưỡi búa soi vào phiến đá
Mây trắng vần vụ như khói hương vây bọc bức tường
Dấu thơm từ xưa giờ chẳng còn gì
Thắng cảnh đến nay cũng không như cũ
Anh phong lẫm liệt muôn thưở vẫn còn
Thư thả bước nhẹ trên các sườn núi tìm hỏi nơi ở cũ của tiên sinh .
Dịch thơ:
Trên núi Phượng Hoàng vắng vẻ thay
Nhà xưa Tiều Ẩn dấu còn đây
Trơ vơ phiến đá nằm phơi nguyệt
Mờ mịt nửa tường ẩn khói mây
Hiu quạnh dấu xưa bên hốc núi
Hoang sơ nền cũ dưới rừng cây
Anh phong lẫm liệt còn lưu mãi
Dạo bước sườn non tưởng nhớ thày
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
1.Núi Phượng Hoàng nay thuộc địa bàn phường Văn An thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương
2.Tiều Ẩn: tên hiệu của Chu Văn An
3. Cổ bích: bức tường cổ, dấu tích ngôi nhà cũ của Chu Văn An khi về ở ẩn trên núi Phượng Hoàng nay cũng không còn. Chỉ còn lại một ngôi mộ cổ tương truyền là mộ Chu Văn An và đồng thời đó cũng là nơi ở cũ của ông?
====================================
KỲ 3: DƯỢC LĨNH CỔ VIÊN
其三
藥嶺古園
白藤江口度千艘
青嶺林園留一蔟
半是溪泉半是山
兼有漁樵兼有牧
主人已在元陳史
谁謂天南國誌讀
萬古餘威人見聞
園林風鶴園林木
Phiên âm:
Kỳ III: Dược lĩnh 1cổ viên 2
Bạch Đằng hải khẩu độ thiên sưu
Thanh lĩnh lâm viên lưu nhất thốc
Bán thị khê tuyền bán thị sơn
Kiêm hữu ngư tiều kiêm hữu mục
Chủ nhân dĩ tại Nguyên -Trần sử
Thùy vị thiên nam quốc chí độc
Vạn cổ dư uy nhân kiến văn
Viên lâm phong hạc viên lâm mộc
Dịch nghĩa
Bài 3: Vườn cây thuôc cổ trên núi Dược Sơn
Cửa sông bạch Đằng đậu ngàn con tầu
Núi xanh rừng cây thành một chòm chụm lại
Nửa là khe suối nửa là núi
Gồm cả thú đánh cá, kiếm củi và chăn trâu
Chủ nhân đã được ghi chép trong sử nhà Trần, nhà Nguyên
Chỉ đọc sử ta sao rõ hết được
Dư uy muôn thưở người còn nghe thấy
Trong gió của vườn rừng, trong cây của vườn rừng.
Dịch thơ
Nghìn tầu đậu cửa Bạch Đằng giang
Trên đỉnh non xanh vườn một khóm
Bên là khe suối bên sườn non
Kiếm củi chăn trâu cả chài vạn
Chủ Nhân tên chép sử Trần-Nguyên
Đọc ta, sao hiểu hết công trạng
Dư uy lừng lẫy từng bao phen
Giặc đến nghe hơi đã khiếp đảm.
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
1.Dược lĩnh: núi Dược (Dược sơn) nay thuộc địa phận thôn Dược Sơn xã Hưng Đạo thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương. Núi Dược còn có một tên khác là núi Nam Tào, nằm ngay phía nam cạnh đền Kiếp Bạc.
2. Cổ viên: Nghĩa chữ là vườn cổ nhưng thực nghĩa ở đây chỉ vườn cây thuốc cũ của Trần Hưng Đạo, tồn tại trong lịch sử khoảng nửa cuối thế kỷ XIII
====================================
KỲ 4: NHẠN LOAN CỔ ĐỘ
其四
雁灣古渡
龜爪鵝毛雲水路
將暈炭筏成名渡
漁郎垂釣笛歌閒
舟子濟人衰笠古
江中光景長如此
風月清秋今幾渡
客船閒泛古江秋
追記前朝一奇遇.
Phiên âm
Kỳ IV: Nhạn Loan 1 cổ độ 2
Quy trảo nga mao vân thủy lộ
Tướng quân than phiệt thành danh độ
Ngư lang thùy điếu địch nga nhàn
Chu tử tế nhân thoa lạp cổ
Giang trung quang cảnh trường như thử
Thu nguyệt thanh thu kim kỷ độ
Khách thuyền nhàn phiếm cổ giang thu
Truy ký tiền triều nhất kỳ ngộ 3
Dịch nghĩa
Bài 4: Bến đò cổ Nhạn loan
Móng rùa lông ngỗng theo đường thủy này
Bè chở than của tướng quân ở đây làm bến đò thành nổi tiếng
Chàng câu cá buông câu, tiếng sáo tiếng ca nhàn tản
Chú lái đò chở người qua sông khoác áo tơi nón lá
Quang cảnh trên sông mãi mãi vẫn như thế
Đã trài qua biết bao năm tháng gió trăng rồi
Khách thuyền nhàn tản du chơi mùa thu trên bến cũ
Lại nhớ đến câu chuyện gặp gỡ kỳ ngộ của triều trước
Dịch thơ
Móng rùa lông ngỗng đường mây nước
Danh tướng bán than ngày lỡ bước
Câu cá ông chài tiếng sáo bay
Chở đò chú lái nón tơi khoác
Trên sông quang cảnh mãi như rày
Trăng gió thu qua bao độ khác
Khách thuyền nhàn chơi trên bến xưa
Nhớ cuộc vua tôi kỳ ngộ trước.
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
1.Nhạn Loan: Tên bến đò cũ của Trần Khánh Dư. Hiện nay chưa xác định được vị trí cụ thể. Xưa nay thường hiểu bến đò này nằm ở địa phận thôn Lý Dương (tục gọi làng Chiền) bên bờ sông Lục Đầu Giang. Nhưng đền thờ Trần Khánh Dư lại nằm ở địa phận thôn Linh Giàng (tục gọi làng Gốm) bên bờ sông Kinh Thày. Cho nên cũng khó loại trừ khả năng bến Nhạn Loan cũng ở ngay làng Gốm?
2. Cổ độ: nghĩa chữ là bến đò xưa. Nhưng thực tế nếu hiểu như vậy thì chưa ổn. Vì Trần Khánh Dư trong thời chiến ông là một danh tướng nhưng trong thời bình ông lại là một doanh nhân. Thời ông bị cách quan tước và tịch thu gia sản ở Thăng Long phải về quê cha đất tổ ở châu Chí Linh này sống. Chí Linh ngày đó mới là tên của một vùng đất bãi ven sông (châu) chứ chưa thành tên huyện. Sử sách thời đó vẫn chép là huyện Bàng Hà (nghĩa là bên ngoài sông so với Thăng Long) thuộc Hồng Châu (Hải Dương ngày nay). Ông về đây làm nghề kiếm củi đốt than để sinh nhai. Nhưng quy mô làm ăn của ông không nhỏ. Ông thường dùng thuyền lớn chở than đi bán khắp các vùng ngoài. Lại còn mở cả lò gốm nữa. Như vậy thì cái bến đò của ông phải có tầm vóc của một cảng sông thì đúng hơn?
3. “Truy ký tiền triều nhất kỳ ngộ”: Câu thơ muốn nhắc lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa vua Trần với Khánh Dư vào năm 1282 khi vua Trần về đây dự hội nghị Bình Than. Về sự kiện này Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép: “ Khánh Dư lui về ở Chí Linh cùng với bọn hèn hạ làm nghề bán than. Khi ấy thuyền của vua đậu ở bến Bình Than. Nước triều xuống, gió thổi mạnh, có một chiếc thuyền lớn chở than gỗ, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn, vua chỉ và bảo quan thị thần rằng: “Người kia có phải là Nhân Huệ vương không?”. Lập tức cho người cưỡi thuyền nhỏ đuổi theo, đến cửa Đại Than thì kịp. Quân hiệu gọi rằng: “Ông lái kia, vua cho đòi nhà ngươi”. Khánh Dư nói: “Ông già là người buôn bán có việc gì mà gọi đến ?”. Quân hiệu về tâu thực như thế. Vua nói: “Đúng là Nhân Huệ vương rồi, nếu là người thường tất không dám nói thế”. Vua lại sai nội thị đi gọi. Khánh Dư đến nơi, mặc áo ngắn, đội nón lá. Vua nói: “Nam nhi cực khổ đến thế là cùng”.Xuống chiếu tha tội. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, thứ vị ngồi ở dưới các vương, trên các công hầu…”
====================================
KỲ 5: THƯỢNG TỂ CỔ TRẠCH
其五
上宰古宅
我縣河之北
河東砦之西
昔人居鼎鼎
今日留山溪
杏杏傍石穿
籣帆靠岸低
村翁尋我道
石跡故門溪
Phiên âm
Kỳ ngũ: Thượng tể 1 cổ trạch 2
Ngã huyện hà chi bắc 3
Hà Đông trại chi tê 4
Tích nhân cư đỉnh đỉnh
Kim nhật lưu sơn khê
Hạnh hạnh bang thạch xuyên
Lan phàm kháo ngạn đê
Thôn ông tầm ngã đạo
Thạch tích cố môn khê.
Dịch nghĩa
Bài 5: Nhà cổ của quan Thượng tể
Nhà cổ của tể tướng ở địa phận Hà bắc của huyện
Ở phía tây trại Hà Đông
Tể tướng xưa vốn ở chốn chung đỉnh
Về sau mới về ở nơi núi khe
Cây hạnh mọc xiên qua đá
Cột buồm gỗ lan đậu sát bờ đê
Một ông già trong thôn tìm tôi mach bảo
Dấu tích trên đá chính là cửa nhà cũ ở bên suối
Dịch thơ
Nhà ở phía bắc huyện
Phía tây một trại quê
Trước ở chốn đô hội
Sau về cùng núi khe
Cây hạnh rễ xiên đá
Buồm lan sát bờ đê
Ông già tìm tôi chỉ
Dấu đá nhà cũ kia
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
1.Thượng tể là chức quan đầu triều của Trần Quốc Chẩn, em ruột vua Trần Anh Tông.
2.Cổ trạch: nơi ở cũ của Trần Quốc Chẩn chính là khuôn viên đền Quốc Phụ ngày nay. Có lẽ vì Trần Quốc Chẩn là cha đẻ của Hoàng hậu vợ vua Trần Minh Tông nên có tên đền như thế. Đền Quốc Phụ trước đây thuộc địa phận thôn Kiệt Đông (tục gọi là làng Dọc Đông), tổng Kiệt Đặc. Nay thuộc địa phận Khu dân cư thôn Nẻo phường Chí Minh thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương.
3.Câu thơ nói vị trí của “cổ trạch” nằm ở phía bắc huyện, tức là khu Hà Bắc của huyện Chí Linh cổ nằm ở phía bắc sông Kinh Thày.
4.Câu thơ vẫn tiếp tục nói vị trí của “cổ trạch” ở phía tây trại Hà Đông. Chưa rõ trại Hà Đông là trại nào. Nhưng ở phía đông đền Quốc Phụ là địa phận của các làng Nội, làng Triều (tên cũ là Đông Đôi).
====================================
KỲ 6: PHAO SƠN CỔ THÀNH
其六
拋山古城
明胡持鬥日
黎莫戰爭秋
南度永樂寺
東還慶祐修
至今皆陳跡
此地一名區
感慨重豋眺
高山與水流
Phiên âm
Kỳ lục: Phao sơn 1 Cổ Thành 2
Minh - Hồ trì đấu nguyệt
Lê - Mạc chiến tranh thu
Nam độ Vĩnh Lạc tự
Đông hoàn Khánh Hựu tu
Chí kim giai trần tích
Thử địa nhất danh khu
Cảm khái trùng đăng diểu
Cao sơn dữ thủy lưu.
Dịch nghĩa
Bài sáu: Thành cổ Phao Sơn
Thành này là nơi xưa nhà Minh-nhà Hồ giành giật nhau mãi
Cũng là nơi nhà Lê- nhà Mạc đánh nhau hoài
Ở bến đò phía nam là chùa Vĩnh Lạc
Phía đông là chùa Khánh Hựu
Đến nay đều thành dấu tích cổ xưa
Vùng đất này thành nổi tiếng
Cảm khái leo lên cao và nhìn ra xa
Chỉ thấy có núi cao bên dòng nước chảy.
Dịch thơ
Minh-Hổ mãi giành giật
Lê-Mạc hoài chiến tranh
Bến nam chùa Vĩnh Lạc
Khánh Hựu phía đông thành
Đều còn lưu dấu cũ
Đất này thành nổi danh
Cảm khái lên trông ngắm
Núi cao dòng nước quanh
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
1.Phao sơn : núi thuộc địa phận xã Phao Sơn tổng Cổ Châu (chỉ châu Chí Linh xưa). Nay thuộc địa phận phường Phả Lại thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương.
2. Cổ Thành : chỉ thành Chí Linh xưa do nhà Minh xây dựng trên núi Phao Sơn vào năm 1418. Có lẽ vì Phao Sơn thời ấy vẫn thuộc châu Chí Linh nên người Minh đặt tên thành này là thành Chí Linh. Trong một bức thư viết dụ hàng thành này vào giai đoạn cuối cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, thực hiện chủ trương vây thành diệt viện, Nguyễn Trãi gọi thành này là thành Bình Than. Sau này nhà Mạc tiếp tục xây dựng và củng cố thêm để làm phòng tuyến chống lại với quân Lê-Trịnh. Tên Phao Sơn cổ thành hay Thành Phao là do người đời sau gọi. “Ai đưa tôi đến chốn này / Bên kia Phả lại bên này Thành Phao” (Ca dao).
====================================
KỲ 7: VÂN TIÊN CỔ ĐỘNG
其七
雲僊古洞
玄天一煉丹
千古成名山
名山今不改
丹瀘昔已寒
流光古殿失
冰壺舊典刊
岩下泉聲隱
洞裏草花閒
蒼蒼松老嫩
鑿鑿石巑岏
樵炭飛光易
梵燈續焰難
陳世鶯將老
雲僊鶴不還
爲訪高人跡
履幽及層巒
山深增寂寞
秋興客盤桓
村翁相對話
江山眼界寬
Phiên âm
Kỳ thất: Vân Tiên 1 cổ động 2
Huyền Thiên 3 nhất luyện đan
Thiên cổ thành danh san
Danh san kim bất cải
Đan lô tích dĩ hàn
Lưu Quang 4 cổ điện thất
Băng Hồ 5 cựu điển san
Nham hạ tuyền thanh ẩn
Động lý thảo hoa nhàn
Thương thương tùng lão nộn
Tạc tạc thạch toàn ngoan
Tiều thán phi quang dị
Phạn đăng tục diệm nan
Trần thế oanh tương lão
Vân Tiên hạc bất hoàn
Vi phỏng cao nhân tích
Lý u cập tằng loan
Sơn thâm tăng tịch mịch
Thu hứng khách bàn hoàn
Thôn ông tương đối thoại
Giang sơn nhãn giới khoan
Dịch nghĩa
Bài 7: Động cổ Vân Tiên
Đức Huyền Thiên từng luyện đan ở đây
Nên từ ngàn năm nay núi này trở thành nổi tiếng
Núi danh tiếng đến nay vẫn không thay đổi
Nhưng lò luyện đan thì đã nguội tắt từ lâu rồi
Điện Lưu Quang xưa cũng không còn
Thơ Băng Hồ vẫn ghi trong sách
Dưới đá ngầm có tiếng suối chảy
Trong động hoa cỏ lặng lẽ
Xanh xanh cây thông già đổi lá
Lởm chởm đá núi gập ghềnh
Đốt than lửa rực hồng của ông tiều thì dễ
Nhưng giữ ngọn đèn thờ Phật của nhà chùa thì lại khó
Chim oanh ở trần thế đã sắp già
Mà không thấy chim hạc động Vân Tiên về đón
Muốn thăm dấu tích các bậc cao nhân
Thì phải giẫm đạp lên các bui cây rậm rạp ở sườn núi
Càng đi vào rừng sâu càng thấy thêm vắng vẻ
Cảnh trời thu càng như quyến luyến với khách
Cùng với ông già xóm núi trò chuyện
Sông núi như thu cả vào trong tầm mắt.
Dịch thơ
Huyền Thiên từng luyện đan
Núi này thành danh san
Danh san nay vẫn thế
Lò luyện xưa nguội tàn
Điện Lưu Quang đã mất
Thơ Băng Hồ còn in
Dưới đá tiếng suối chảy
Trong động hoa cỏ lan
Xanh xanh thông đổi lá
Lởm chởm đá gập ghềnh
Đốt than ông tiều dễ
Giữ đèn chùa khó khăn
Chim oanh đời sắp vãn
Hạc không về hỏi han
Tìm dấu cao nhân cũ
Phải giẫm bừa núi non
Rừng sâu thêm vắng vẻ
Lòng khách càng miên man
Chuyện với ông già núi
Mắt thu cùng giang san
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
1.Vân Tiên: tương truyền là tên của một hang động nằm ở phía sau Huyền Thiên tự (tục gọi là chùa Huyền), một ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý và phát triển quy mô ở thời Trần.
2. Cổ động: động cổ, chữ động có nghĩa là cái hang. Nhưng đồi núi ở Chí Linh chỉ là núi đất nên không có hang động tự nhiên được. Cho nên chữ động trong “Vân Tiên cổ động” hoặc trong “Thanh Hư động” không hề có nghĩa là cái hang . Hãy đọc những câu thơ tả cảnh Vân tiên cổ động: “ Trong động hoa cỏ lan / Xanh xanh thông đổi lá / Lởm chởm đá gập ghênh”; hoặc đọc những câu thơ Nguyễn Trãi tả cảnh Thanh Hư động “ Trong động Thanh Hư nghìn khóm trúc / Thác bay như kính lạnh như băng”…ta sẽ thấy chữ động dùng ở đây chỉ có nghĩa là một vùng núi non hoa cỏ...
3. Huyền Thiên: tức Huyền Thiên thượng đế ( hóa thân của sao Bắc Đẩu theo truyền thuyết của người Trung Hoa) chuyên trấn giữ phương bắc. Ở Việt Nam vị thần này còn có một tên nữa là Trấn Vũ có đền thờ ở Thăng Long –Hà Nội.
4.Lưu Quang điện cổ: một ngôi điện cổ trên núi Phượng Hoàng. Nay đã được dựng lại, ngay trước cổng đền thờ Chu Văn An.
5.Băng Hồ: tên hiệu của Trần Nguyên Đán, có công lớn trong việc phò giúp vua Trần Nghệ Tông trong vụ dẹp loạn Dương Nhật Lễ (1370). Năm 1285 ông xin về hưu ẩn tại Côn Sơn và xây dựng Thanh Hư động. Vì thế trong thơ văn của Nguyễn Phi Khanh (con rể ) ông còn được gọi là Thanh Hư động chủ.
====================================
KỲ 8: TINH PHI CỔ THÁP
其八
星妃古塔
玉手折高枝
鏡顏留古塔
從古此江山
至今幾蓂荚
花草自射開
漁樵相對荅
山色正清蒼
秋聲何箫颯
Phiên âm
Kỳ bát: Tinh phi 1 cổ tháp 2
Ngọc thủ chiết cao chi
Kính nhan lưu cổ tháp
Tòng cổ thử giang san
Chí kim kỷ minh giáp 3
Hoa thảo tự tạ khai
Ngư tiều tương đối đáp
Sơn sắc chính thanh thương
Thu thanh hà tiêu táp
Dịch nghĩa
Bài 8: Ngôi tháp cổ của Bà Chúa sao sa
Tay ngọc vin bẻ cành cao
Mặt gương còn lưu trên tháp cổ
Giang sơn từ bấy đến giờ
Đã có bao tấm gương đoan trinh tốt đẹp như vậy
Hoa cỏ tự tàn tự nở
Ngư tiều cùng nhau đối đáp
Sắc núi đã xanh càng thêm xanh
Tiếng thu bao nhiêu độ nghe xào xạc.
Dịch thơ
Tay ngọc vin bẻ cành kiêu
Gương trên tháp cổ còn nêu chốn này
Non sông từ bấy đến nay
Mấy ai thục nữ sánh tày Sao Sa
Tự tàn tự nở cỏ hoa
Ngư tiều đối đáp lại qua vui vầy
Xanh xanh sắc núi xanh thay
Tiếng thu mấy độ heo may xạc xào.
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
1.Tinh Phi : một tên khác của bà Nguyễn Thị Duệ. Tương truyền mẫu thân của bà Duệ nằm mơ thấy sao rơi vào bụng sau đó thụ thai và sinh ra bà, nên người đời sau mới gọi bà là Tinh Phi (Sao Sa).
2. Cổ tháp: Những năm cuối đời bà Duệ (còn có tên nữa là Nguyễn Thị Ngọc Toàn) về lập am tu tại quê nhà. Am lập tại núi Trì Ngư, trước khu mộ tổ nhà bà và gần Huyền Thiên tự. Khi bà mất, dân địa phương ghi nhớ công ơn của bà đã có nhiều phát tâm giúp đỡ dân làng khi sinh thời, nên có xây trên ngôi mộ của bà một cây tháp bằng đất nung màu đỏ và lập ngôi đền thờ bà phía trước tháp. Hiện nay tháp ấy không còn nhưng ngôi mộ vẫn còn. Năm 2008 tỉnh Hải Dương cho xây dựng nâng cấp ngôi đền thờ bà. Có một điều lạ là cũng từ đó cò vạc rủ nhau hàng nghìn con về quanh đây sinh sống. Hàng ngày chúng bay lượn, lội bơi trên mặt hồ trước cửa trông rất vui mắt, phong cảnh nơi đây cũng thêm vẻ hữu tình.
3.Minh giáp: nghĩa đen là một thứ cỏ mọc ra để báo điềm tốt. Ở đây chỉ cuộc đời của bà. Sách cổ có nhiều trang ghi chép về bà. Nhưng chỉ có ghi chép trong “Chí Linh phong vật chí” là có nhiều thông tin hơn cả. Xin chép ra đây để bạn đọc tham khảo:
Bà chúa Sao Sa
Chánh vương phủ thị nội cung tần Đức lão lễ sư, Nguyễn thị Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền là người xã Kiệt Đặc. Tục truyền rằng mộ thân phụ của bà ở núi Trì Ngư, xưa có người Tầu để cho với lời dạy rằng: “Nhất kính chiếu tam vương”.Táng xong đến ngày 14 tháng 3 thì sinh bà; Bà thân mẫu nằm mộng thấy sao sa vào bụng.Tên là bà Thị Duệ, nhan sắc tuyệt thế thông minh hơn người. Thời bấy giờ có ông Nguyễn Quý Nha làm quan trong triều là người cùng làng, nhờ mối lái muốn hỏi làm vợ nhưng bà không bằng lòng. Năm 20 tuổi cuối đời Mạc, bà theo cha chạy loạn lên Cao Bằng. Nhân lúc ấy bà ăn mặc giả trai theo thầy học tập, học rộng văn hay. Hồi ấy khu đất Đông Bắc còn thuộc nhà Mạc. Nhà Mạc mở cuộc thi hội ở Cao Bằng. Sĩ tử ứng thí có nhiều. Bà đỗ đầu, thứ hai là thầy học của bà. Ông thày học cười nói: “Mầu xanh từ mầu lam mà ra, mà đẹp hơn mầu lam”. Khi vào dự yến, chúa Mạc thấy diện mạo là phụ nữ, hỏi dò biết được sự thật bèn lấy làm vợ, đặt tên là Sao Sa. Khi nhà Mạc mất bà vào ẩn trong hang núi, bị quân nhà Trịnh bắt được. Bà bảo quân sĩ rằng:
- Bọn bay đã bắt được ta, nên đưa ta đến gặp chúa bọn bay, không được vô lễ. Nếu vô lễ chỉ có thanh kiếm này thôi, mà bọn bay rốt cuộc cũng chẳng thành công gì.
Quân sĩ thấy làm lạ đưa vào tiến chúa. Bà liền được quý mến trọng dụng. Chúa Trịnh ban lệnh chỉ cấp cho bà tiền đóng góp về binh lính, thuế tô ruộng công, thuế đò, thuế chợ, cùng các thứ thuế khác để làm bổng lộc.Từ đó về sau trải qua 20 năm, không những sưu sai tạp dịch được miễn trừ mà còn được cấp 100 quan tiền và 2 mẫu ruộng tốt. Nhân dân xã bà từ trên chí dưới được cảm tình của bà, lại chịu ơn ban ngoại lệ nên đều một lòng kính trọng tôn bà làm hậu thần.
Nhưng bà rộng xem kinh thánh, thông suốt phật giáo, hưởng bổng lộc nhiều, nhân dân có lập ra quy ước định rằng các ngày kỵ nhật tiên tổ nội ngoại và ngày sinh, ngày giỗ của Đức lão (8 tháng 11), đều dùng cỗ chay oản quả cúng lễ và lệ đó sẽ truyền mãi về sau.
Lúc tuổi già, bà trụ trì chùa Vụ Nông huyện Gia Lâm. Khi thân quân Hoằng tổ vương lên ngôi, cho tìm nữ học sĩ để dạy cung nhân,gọi bà vào làm Lễ sư. Bất cứ việc gì trong hai triều đều lấy văn chương cung phụng, luôn luôn ở cạnh mình. Mỗi khi chúa có việc gì hỏi han, bà đều dẫn kinh sử, sự tích xưa nay để đối đáp, chúa thường khen ngợi.Cả đến quyển thi hội,văn sớ quần thần cũng qua tay bà xem xét quyết định. Khoa Tân Mùi, vào thi đình
Nguyễn Thọ Xuân đậu đầu, văn chương chữ nghĩa sâu sắc không ai hiểu thấu được. Chúa hỏi ý kiến, bà trình bày rõ ràng, vua khen là người học rộng.
Trước khi hành văn Nguyễn Thọ Xuân đã nói rằng: “Văn của ta cả triều không ai hiểu hết đâu, họa chăng là có chị ta là Lễ sư thôi”. Ông cùng bà là anh chị em họ ngoại với nhau. Ông nói đúng như vậy.Thật bà là người tài cao học rộng vậy.
Tục truyền rằng bà khéo khuyến khích người sau. Mỗi tháng hai kỳ sai người nhà làm cỗ, họp sĩ tử tư văn hàng huyện lại cho tập làm văn. Đầu bài sai người từ Kinh đô mang về. Bài làm xong, giao cho các vị hội viên tư văn niêm phong cả lại đem nộp. Chính tay bà xét duyệt. Đúng hạn gửi trả lại, đăng tên lên bảng kỳ thư. Việc ra bài làm như vậy thực hiện rất đều. Sau thời kỳ trung hưng, phong trào văn học mở mang rộng lớn là do bà gây dựng nên. Tục lại truyền rằng: trong số ruộng bà được chúa ban cho hưởng lộc riêng tại bản quán, bà sai lấy 10 mẫu ruộng tốt thưởng cho các bậc sĩ phu đại khoa trong xã.Mãi sau lệ này mới bỏ đi. Anh ruột bà xưa kia bị người làng giết hại, khi bà được giầu sang vinh hiển, kẻ sát nhân thờ cúng người anh rất chu đáo, bà cũng không đem lòng oán hận gì. Người thời bấy giờ phục bà là người có đức độ.
Năm gần 80 tuổi bà sai người Tầu dựng cho một cái am, trước án mộ tổ. Bà mất khi tuổi ngoài 80, trước sau thờ tất cả ba vua.
Văn bà viết có đến trăm tờ, gần đây vẫn còn, nhưng sau thời loạn thì mất cả. Ôi! như bà có thể nói là sống khác vậy. Người xưa có câu: “Nghiêu Thuấn trong giới phụ nữ, thần tiên trong cõi đời ”. Bà cũng gần được như vậy.
Sau khi bà mất, người ta táng bà bên cạnh mộ tổ, xây một ngọn tháp đỏ, gần xa đều có thể thấy rõ, tháp ấy đến nay vẫn còn.
Về ngành nội nhà bà có một chi tại xã Vụ Nông huyện Gia Lâm, con cháu vẫn còn.
Có bài minh viết về bà như sau:
Phiên âm :
Nhân kiệt chung anh, địa linh tú khí
Phát xuất thiên hà, tần thị ngọc phủ
Đức quán hậu cung, lộc cập tiên tổ
Ân trạch chu lưu, hương nhân kính mộ
Tư tiến hinh hương, khánh dư thuần hỗ
Ich diễn vân nhưng, dũ quan tiên tổ
Vạn cổ đức công, lưỡng gian vũ trụ
Ưc tải hoàng đồ,thiên niên thánh thọ.
Dịch nghĩa:
Vẻ đẹp người tài, khí thiêng đất quý
Dòng dõi từ cõi trời, làm nữ quan nơi ngọc phủ
Đức bậc nhất trong cung hoàng hậu, lộc ban đến cả cha ông
Ơn huệ khắp nơi, người làng kính mộ
Hương thơm lừng khắp,phúc trạch có thừa
Càng vẻ vang con cháu, càng rạng rỡ tổ tiên
Công đức nghìn năm, vũ trụ hai cõi
Nghiệp vua dài lâu, tuổi thọ muôn thuở.
Tạm dịch thơ
Người đẹp tài hay, khí thiêng chung đúc
Gốc tại cõi trời, duyên trong phủ ngọc
Đức nhất hậu cung, ông cha hưởng lộc
Ơn huệ khắp nơi, quê hương kính phục
Hương khói thơm lừng, thấm nhuần mưa móc
Càng rạng cháu con càng vinh cõi gốc
Vũ trụ hai miền, muôn đời công đức
Thánh thọ vạn năm, nghiệp vua vạn ức.
(Theo bản dịch của Nguyễn Huy Đại và Nguyễn Thanh Giản)
Tác giả bài viết: ĐỖ ĐÌNH TUÂN
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn